A
One of London Zoo’s recent advertisements caused me some irritation, so patently did it distort reality.
Một trong những quảng cáo gần đây của Sở thú London đã khiến tôi phát cáu, hiển nhiên là nó đã bóp méo sự thật.
Headlined “Without zoos you might as well tell these animals to get stuffed”, it was bordered with illustrations of several endangered species and went on to extol the myth that without zoos like London Zoo these animals “will almost certainly disappear forever”.
Với tiêu đề: "Nếu không có các sở thú, bạn chỉ có thể nói chuyện với thú nhồi bông”, nó đã được viền lại với những hình ảnh minh hoạ của một số loài nguy cấp và tiếp tục tán dương thần thọai rằng nếu không có vườn thú như vườn thú London thì những động vật này "chắc chắn sẽ biến mất mãi mãi".
With the zoo world’s rather mediocre record on conservation, one might be forgiven for being slightly sceptical about such an advertisement.
Với kỷ lục thế giới về bảo tồn của vườn thú trên thế giới, người ta có thể tha thứ vì đã hơi hoài nghi về một quảng cáo như vậy.
B
Zoos were originally created as places of entertainment, and their suggested involvement with conservation didn’t seriously arise until about 30 years ago, when the Zoological Society of London held the first formal international meeting on the subject.
Các vườn thú ban đầu được hình thành để giải trí, và sự liên quan đến bảo tồn đã không phát sinh nghiêm trọng cho đến khoảng 30 năm trước đây, khi Hiệp hội động vật học London tổ chức cuộc họp quốc tế đầu tiên về chủ đề này.
Eight years later, a series of world conferences took place, entitled “The Breeding of Endangered Species”, and from this point onwards conservation became the zoo community’s buzzword.
Tám năm sau, một loạt các hội nghị thế giới đã diễn ra với tựa đề "Ngăn Ngừa Các Loài Bị Nguy Hiểm", và kể từ đó, bảo tồn đã trở thành từ thông dụng của cộng đồng vườn thú.
This commitment has now been clear defined in The World Zoo Conservation Strategy (WZGS, September 1993), which although an important and welcome document does seem to be based on an unrealistic optimism about the nature of the zoo industry.
Cam kết này đã được xác định rõ trong Chiến lược Bảo tồn Động vật Hoang dã Thế giới (WZGS, tháng 9 năm 1993), mặc dù một văn kiện quan trọng và được hoan nghênh dường như dựa trên sự lạc quan không thực tế về bản chất của ngành công nghiệp vườn thú.
C
The WZCS estimates that there are about 10,000 zoos in the world, of which around 1,000 represent a core of quality collections capable of participating in coordinated conservation programmes.
WZCS ước tính có khoảng 10,000 vườn thú trên thế giới, trong đó khoảng 1,000 đại diện có một bộ sưu tập cốt lõi chất lượng, có khả năng tham gia vào các chương trình bảo tồn phối hợp.
This is probably the document’s first failing, as I believe that 10,000 is a serious underestimate of the total number of places masquerading as zoological establishments.
Đây có lẽ là thất bại đầu tiên của tài liệu, như tôi tin rằng 10,000 là con số ít hơn nhiều so với tổng số những nơi đang giả danh là một tổ chức động vật học.
Of course it is difficult to get accurate data but, to put the issue into perspective, I have found that, in a year of working in Eastern Europe, I discover fresh zoos on almost a weekly basis.
Tất nhiên nó rất khó để có được dữ liệu chính xác, nhưng đặt những giả định này và phối cảnh, tôi đã thấy rằng, trong một năm làm việc ở Đông Âu, tôi khám phá các vườn thú chỉ sạch trong 1 tuần mà thôi.
D
The second flaw in the reasoning of the WZCS document is the naive faith it places in its 1,000 core zoos.
Thiếu sót thứ hai trong lý do của tài liệu WZCS là đức tin ngây thơ đặt vào các 1,000 vườn thú cốt lõi.
One would assume that the calibre of these institutions would have been carefully examined, but it appears that the criterion for inclusion on this select list might merely be that the zoo is a member of a zoo federation or association.
Người ta sẽ cho rằng chất lượng của những tổ chức này cần phải được kiểm định một cách cẩn thận, nhưng có vẻ như tiêu chí để đưa vào danh sách lựa chọn này có thể chỉ đơn giản rằng sở thú là một thành viên của một liên hiệp hoặc hiệp hội sở thú.
This might be a good starting point, working on the premise that members must meet certain standards, but again the facts don’t support the theory.
Đây có thể là một điểm khởi đầu tốt, làm việc dựa trên tiền đề rằng các thành viên phải đạt được một số tiêu chuẩn nhất định, nhưng một lần nữa sự thật lại không ủng hộ lý thuyết.
The greatly respected American Association of Zoological Parks and Aquariums (AAZPA) has had extremely dubious members, and in the UK the Federation of Zoological Gardens of Great Britain and Ireland has occasionally had members that have been roundly censured in the national press.
Hiệp hội các Công viên và Thủy sinh học Hoa Kỳ (AAZPA) có rất nhiều thành viên đáng ngờ, và tại Anh, Liên hiệp các Vườn thú Anh và Ireland đã từng có những thành viên đã bị tố cáo một cách triệt để trên báo chí quốc gia.
These include Robin Hill Adventure Park on the Isle of Wight, which many considered the most notorious collection of animals in the country.
Các thành viên này bao gồm Công viên cắm trại Robin Hill trên Đảo Wight, nơi mà được xem là có bộ sưu tập khét tiếng nhất của động vật trong nước.
This establishment, which for years was protected by the Isle’s local council (which viewed it as a tourist amenity), was finally closed down following a damning report by a veterinary inspector appointed under the terms of the Zoo Licensing Act 1981.
Cơ sở này, mà trong nhiều năm được bảo vệ bởi hội đồng địa phương của đảo (được coi là một tiện nghi du lịch), cuối cùng đã bị đóng cửa sau khi một báo cáo kết tội của thanh tra thú y được chỉ định theo các điều khoản của Đạo luật cấp phép cho sở thú năm 1981.
As it was always a collection of dubious repute, one is obliged to reflect upon the standards that the Zoo Federation sets when granting membership.
Vì nó luôn là một bộ sưu tập có danh tiếng đáng ngờ, người ta bắt buộc phải phản ánh các tiêu chuẩn mà Liên hiệo các vườn thú đặt ra khi cấp tư cách thành viên.
The situation is even worse in developing countries where little money is available for redevelopment and it is hard to see a way of incorporating collections into the overall scheme of the WZCS.
Tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn ở các quốc gia đang phát triển, nơi mà chỉ một lượng ít tiền dành cho tái phát triển và rất khó để thấy bộ sưu tập hợp tác theo như kế hoạch chung của WZCS.
E
Even assuming that the WZCS’s 1,000 core zoos are all of a high standard complete with scientific staff and research facilities, trained and dedicated keepers, accommodation that permits normal or natural behaviour, and a policy of co-operating fully with one another what might be the potential for conservation ? Colin Tudge, author of Last Animals at the Zoo (Oxford University Press, 1992), argues that “if the world”s zoos worked together in co-operative breeding programmes, then even without further expansion they could save around 2,000 species of endangered land vertebrates’.
Ngay cả khi giả định rằng 1,000 vườn thú của WZCS đều đạt tiêu chuẩn cao với đội ngũ cán bộ khoa học và các cơ sở nghiên cứu, nhân viên được đào tạo và tận tâm, chỗ ở cho phép hành vi bình thường hoặc tự nhiên và chính sách hợp tác đầy đủ các tổ chức khác có tiềm năng cho việc bảo tồn? Colin Tudge, tác giả của cuốn Last Animals in the Zoo (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1992), lập luận rằng "nếu các vườn thú trên thế giới làm việc cùng nhau trong các chương trình bảo tồn giống nòi, thậm chí ngay cả khi không mở rộng thêm nữa, họ có thể cứu được khoảng 2,000 loài thực vật nguy cấp Động vật có xương sống '.