Cambridge IELTS 14

The power of play

Virtually every child, the world over, plays. The drive to play is so intense that children will do so in any circumstances, for instance when they have no real toys, or when parents do not actively encourage the behavior.
Jul 11,2022
.

Virtually every child, the world over, plays.

Hầu như mọi đứa trẻ, trên thế giới, đều vui chơi.

 

The drive to play is so intense that children will do so in any circumstances, for instance when they have no real toys, or when parents do not actively encourage the behavior.

Động lực để chơi khá mãnh liệt khiến những đứa trẻ sẽ vui chơi trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ví dụ như khi chúng không có đồ chơi, hoặc khi cha mẹ không tích cực ủng hộ hành vi đó.

 

In the eyes of a young child, running, pretending, and building are fun.

Trong mắt của một đứa trẻ, việc chạy nhảy, hóa thân vào các nhân vật, và xây dựng thì thú vị.

 

Researchers and educators know that these playful activities benefit the development of the whole child across social, cognitive, physical, and emotional domains.

Các nhà khoa học và các nhà giáo dục biết rằng những hoạt động vui chơi này mang lại lợi ích cho sự phát triển toàn diện của một đứa trẻ về phạm vi xã hội, nhận thức, thể chất, và cảm xúc.

 

Indeed, play is such an instrumental component to healthy child development that the United Nations High Commission on Human Rights (1989) recognized play as a fundamental right of every child.

Thực vậy, sự vui chơi thật sự là một thành phần cấu thành cho sự phát triển về sức khỏe của trẻ em đến mức mà Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc (1989) đã nhận định sự vui chơi là một quyền cơ bản của mỗi đứa trẻ.

 

 

Yet, while experts continue to expound a powerful argument for the importance of play in children’s lives, the actual time children spend playing continues to decrease.

Tuy vậy, trong khi các chuyên gia tiếp tục trình bày chi tiết một lập luận mạnh mẽ về tầm quan trọng của sự vui chơi trong cuộc sống của trẻ em, thì thời gian thực tế trẻ em được vui chơi tiếp tục giảm.

 

Today, children play eight hours less each week than their counterparts did two decades ago (Elkind 2008).

Những đứa trẻ ngày nay so những đứa trẻ cùng trang lứa cách đây 20 năm được vui chơi ít hơn 8 tiếng mỗi tuần.

 

Under pressure of rising academic standards, play is being replaced by test preparation in kindergartens and grade schools, and parents who aim to give their preschoolers a leg up are led to believe that flashcards and educational ‘toys’ are the path to success.

Dưới áp lực của những tiêu chuẩn giáo dục ngày càng tăng, việc vui chơi đang được thay thế bằng việc chuẩn bị kiểm tra trong các trường mẫu giáo và các lớp học ở trường, và những cha mẹ có mục tiêu hỗ trợ đứa trẻ mẫu giáo phát triển được thuyết phục tin rằng những tấm thẻ học và những ‘đồ chơi’ giáo dục là con đường dẫn đến sự thành công.

 

Our society has created a false dichotomy between play and learning.

Xã hội của chúng ta đã và đang tạo tra sự khác biệt sai lệch giữa vui chơi và học tập.

 

 

Through play, children learn to regulate their behavior, lay the foundations for later learning in science and mathematics, figure out the complex negotiations of social relationships, build a repertoire of creative problem-solving skills, and so much more.

Thông qua trò chơi, trẻ em học cách điều chỉnh hành vi của mình, đặt những nền móng cho việc học sau này trong lĩnh vực khoa học và toán học, tìm hiểu những cuộc đàm phán phức tạp trong những mối quan hệ xã hội, xây dựng một danh mục những kỹ năng giải quyết vấn đề sáng tạo, và nhiều hơn thế nữa.

 

There is also an important role for adults in guiding children through playful learning opportunities.

Người lớn giữ một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn trẻ em thông qua những cơ hội vừa học vừa chơi.

 

 

Full consensus on a formal definition of play continues to elude the researchers and theorists who study it.

sự nhất trí hoàn toàn về khái niệm chính thức của việc vui chơi tiếp tục làm khó các nhà nghiên cứu và nhà lí luận những người nghiên cứu nó.

 

Definitions range from discrete descriptions of various types of play such as physical, construction, language, or symbolic play (Miller & Almon 2009), to lists of broad criteria, based on observations and attitudes, that are meant to capture the essence of all play behaviors (e.g. Rubin et al. 1983).

Những định nghĩa bao gồm từ những mô tả riêng biệt của các hình thức về sự vui chơi như trò chơi thể chất, xây dựng, ngôn ngữ, hoặc ký hiệu (Miller & Almon 2009), đến những danh sách các tiêu chuẩn rộng lớn, được dựa trên những sự quan sát và thái độ, được định nghĩa gần đúng với bản chất của sự vui chơi.

 

 

A majority of the contemporary definitions of play focus on several key criteria.

Đa số những khái niệm đương thời về sự vui chơi tập trung vào một vài tiêu chuẩn chính.

 

The founder of the National Institute for Play, Stuart Brown, has described play as ‘anything that spontaneously is done for its own sake’

Nhà thành lập của Học viện Quốc gia về sự vui chơi, Stuart Brown, đã mô tả sự vui chơi là ‘bất cứ sự việc nào được làm một cách tự phát vì chính lợi ích của nó’.

 

More specifically, he says it ‘appears purposeless, produces pleasure and joy, [and] leads one to the next stage of mastery’ (as quoted in Tippett 2008).

Cụ thể hơn, ông ấy nói rằng nó ‘xuất hiện không có lý do, tạo ra sự thích thú và niềm vui, [và] dẫn việc đó đến giai đoạn tiếp theo của sự tinh thông’ (trích dẫn trong Tippett 2008)

 

Similarly, Miller and Almon (2009) say that play includes ‘activities that are freely chosen and directed by children and arise from intrinsic motivation’.

Tương tự, Miller và Almon (2009) nói rằng sự vui chơi bao gồm ‘những hoạt động được lựa chọn một cách ngẫu nhiên và được điều khiển bởi những đứa trẻ và xuất phát từ động lực bên trong’.

 

Often, play is defined along a continuum as more or less playful using the following set of behavioral and dispositional criteria (e.g. Rubin et al. 1983):

Thông thường sự vui chơi được định nghĩa theo một sự liên tục có tính chất vui chơi nhiều hay ít hơn việc sử dụng tập hợp tiêu chuẩn hành vi và cố hữu

 

Play is pleasurable: Children must enjoy the activity or it is not play.

Sự vui chơi thì thú vị: những đứa trẻ phải thực sự tận hưởng hoạt động này hoặc nó không phải là trò chơi.

 

It is intrinsically motivated: Children engage in play simply for the satisfaction the behavior itself brings.

Nó là động cơ từ bên trong: trẻ em tiến hành trò chơi một cách đơn giản vì sự thoải mái mà chính hành động đó mang lại.

 

It has no extrinsically motivated function or goal.

Nó không có động cơ từ bên ngoài làm vai trò hay mục tiêu.

 

Play is process oriented: When children play, the means are more important than the ends.

Vui chơi là quá trình được định hướng: khi đứa trẻ chơi, những cách thức quan trọng hơn kết quả cuối cùng.

 

It is freely chosen, spontaneous and voluntary.

Nó được lựa chọn một cách ngẫu nhiên, tự phát và tự nguyện.

 

If a child is pressured, they will likely not think of the activity as play.

Nếu một đứa trẻ bị áp lực, chúng sẽ có khả năng không nghĩ hoạt động đó là trò chơi.

 

Play is actively engaged: Players must be physically and/or mentally involved in the activity.

Chơi được tiến hành một cách tích cực: những người chơi phải có yếu tố thể chất và/ hoặc trí tuệ trong hoạt động.

 

Play is non-literal.

Vui chơi là không có con chữ.

 

It involves make-believe.

Nó bao gồm sự giả vờ.

 

 

According to this view, children’s playful behaviors can range in degree from 0% to 100% playful.

Theo quan điểm này, những hành vi có tính chất vui chơi của đứa trẻ có thể trong giới hạn từ 0% đến 100%.

 

Rubin and colleagues did not assign greater weight to any one dimension in determining playfulness; however, other researchers have suggested that process orientation and a lack of obvious functional purpose may be the most important aspects of play (e.g. Pellegrini 2009).

Rubin và những đồng nghiệp đã không ấn định thiên về bất cứ khía cạnh nào trong việc xác định tính chất vui chơi; tuy nhiên, những nhà nghiên cứu khác đã đề nghị rằng sự định hướng quá trình và sự thiếu sót của lý do chức năng rõ ràng có thể là những khía cạnh quan trọng nhất của sự vui chơi.

 

 

From the perspective of a continuum, play can thus blend with other motives and attitudes that are less playful, such as work.

Từ góc nhìn về tính liên tục, chơi có thể kết hợp với những sự vận động khác và thái độ khác ít tính chất vui chơi hơn, ví dụ như làm việc.

 

Unlike play, work is typically not viewed as enjoyable and it is extrinsically motivated (i.e. it is goal oriented).

Không giống như chơi, làm việc thường không được coi là tận hưởng và nó là động cơ xuất phát từ bên ngoài (nó chú trọng tới mục tiêu).

 

Researcher Joan Goodman (1994) suggested that hybrid forms of work and play are not a detriment to learning; rather, they can provide optimal contexts for learning.

Nhà nghiên cứu Joan Goodman (1994) đã cho rằng những dạng thức kết hợp giữa làm việc và chơi thì không phải là một hình thức của việc học; hơn thế, chúng có thể tạo ra những hoàn cảnh tối ưu cho việc học.

 

For example, a child may be engaged in a difficult, goal-directed activity set up by their teacher, but they may still be actively engaged and intrinsically motivated.

Ví dụ, một đứa trẻ có thể được cam kết trong một hoạt động hướng đến mục tiêu và khó khăn được lập ra bởi giáo viên, mà chúng có thể còn được cam kết một cách tích cực và có động lực từ bên trong.

 

At this mid-point between play and work, the child’s motivation, coupled with guidance from an adult, can create robust opportunities for playful learning.

Tại điểm cân bằng của việc chơi và làm việc, động lực của đứa trẻ, được kết hợp với sự hướng dẫn của người lớn, có thể tạo ra những cơ hội thiết thực cho việc học mang tính chất vui chơi.

 

 

Critically, recent research supports the idea that adults can facilitate children’s learning while maintaining a playful approach in interactions known as ‘guided play’ (Fisher et al. 2011).

Một cách nghiêm túc, nghiên cứu gần đây bổ sung thêm cho ý tưởng rằng người lớn có thể tạo thuận lợi cho việc học của trẻ em trong khi vẫn duy trì một hướng tiếp cận có tính chất vui chơi trong những tác động qua lại được biết đến là vui chơi có hướng dẫn.

 

The adult’s role in play varies as a function of their educational goals and the child’s developmental level (Hirsch-Pasek et al. 2009).

Vai trò của người lớn trong việc vui chơi khác nhau về chức năng của những mục tiêu giáo dục và mức độ phát triển của trẻ em.

 

 

Guided play takes two forms.

Vui chơi có hướng dẫn chia thành hai dạng.

 

At a very basic level, adults can enrich the child’s environment by providing objects or experiences that promote aspects of a curriculum.

Ở mức độ rất cơ bản, người lớn có thể làm phong phú thêm cho môi trường của trẻ em bằng cách cung cấp những vật thể hoặc kinh nghiệm giúp đẩy mạnh các phương diện của một chương trình giảng dạy.

 

In the more direct form of guided play, parents or other adults can support children’s play by joining in the fun as a co-player, raising thoughtful questions, commenting on children’s discoveries, or encouraging further exploration or new facets to the child’s activity.

Trong các hướng khác của sự vui chơi có hướng dẫn, cha mẹ hoặc người lớn khác có thể hỗ trợ sự vui chơi của trẻ em bằng cách tham gia vào cuộc vui như một người chơi cùng, làm tăng những câu hỏi sâu sắc, bàn luận về những khám phá của trẻ, hoặc ủng hộ sự tìm tòi hoặc những mặt mới trong hoạt động của trẻ.

 

Although playful learning can be somewhat structured, it must also be child-centered (Nicolopolou et al. 2006).

Mặc dù việc học có tính chất vui chơi có thể mang tính tổ chức, nó cũng phải lấy trẻ làm trung tâm.

 

Play should stem from the child’s own desire.

Vui chơi nên bắt nguồn từ mong muốn của chính đứa trẻ.

 

 

Both free and guided play are essential elements in a child-centered approach to playful learning.

Cả hai sự vui chơi tự do và có hướng dẫn đều là những yếu tố cần thiết trong sự tiếp cận lấy trẻ làm trung tâm để việc học có tính chất vui chơi.

 

intrinsically motivated free play provides the child with true autonomy, while guided play is an avenue through which parents and educators can provide more targeted learning experiences.

Sự vui chơi tự do có động cơ từ bên trong cung cấp cho trẻ quyền tự chủ thực sự, trong khi vui chơi có hướng dẫn là một đại lộ mà thông qua đó cha mẹ và những nhà giáo dục có thể cung cấp những kinh nghiệm học tập mang tính mục tiêu hơn.

 

In either case, play should be actively engaged, it should be predominantly child-directed, and it must be fun.

Trong trường hợp nào thì vui chơi cũng nên được thực hiện một cách tích cực, hướng đến trẻ là chủ yếu, và nó phải vui.

 

 

Từ vựng trong bài

extrinsic: bên ngoài

robust: thiết thực

sake: lợi ích

dispositional: cố hữu

domain: phạm vi, lĩnh vực, lãnh thổ, miền

to expound: trình bày chi tiết

non-literal: không có con chữ

dimension: khía cạnh

give their preschoolers a leg up: hỗ trợ những trẻ mẫu giáo phát triển

spontaneously: một cách tự phát

cognitive: nhận thức

make-believe: sự giả vờ

predominantly: chủ yếu

consensus: sự nhất trí

continuum: sự liên tục

dichotomy: sự khác biệt, sự phân đôi

counterpart: bản sao

lay the foundations: đặt những nền móng

interaction: tương tác, tác động qua lại

essence: bản chất

discrete: riêng biệt

intrinsic: bên trong

VIE
View Question


abc