Cambridge IELTS 13

The happiness industry how the government and big business sold us well-being

Happiness is the ultimate goal because it is self-evidently good. If we are asked why happiness matters we can give no further external reason.
Jul 11,2022
.

Happiness is the ultimate goal because it is self-evidently good.

Hạnh phúc là mục tiêu cuối cùng vì hiển nhiên là nó tốt.

 

If we are asked why happiness matters we can give no further external reason.

Nếu chúng ta được hỏi tại sao hạnh phúc quan trọng, chúng ta không thể đưa ra thêm lý do bên ngoài nào.

 

It just obviously does matter.’

Đó rõ ràng là một điều quan trọng.

 

This pronouncement by Richard Layard, an economist and advocate of ‘positive psychology’, summarises the beliefs of many people today.

Tuyên bố này của Richard Layard, một nhà kinh tế học và người chủ trương “tâm lý học tích cực”, đúc kết niềm tin của rất nhiều người hiện nay.

 

For Layard and others like him, it is obvious that the purpose of government is to promote a state of collective well-being.

Với Layard và những người giống ông ấy, rõ ràng là mục đích của chính phủ là thúc đẩy một trạng thái của hạnh phúc tập thể.

 

The only question is how to achieve it. and here positive psychology - a supposed science that not only identifies what makes people happy but also allows their happiness to be measured - can show the way.

Câu hỏi duy nhất là làm như thế nào để đạt được nó và ở đây tâm lý tích cực - một ngành khoa học cho rằng điều đó không chỉ xác định điều gì khiến con người hạnh phúc mà còn cho phép hạnh phúc của họ được đánh giá - có thể chỉ ra cách này.

 

Equipped with this science, they say, governments can secure happiness in society in a way they never could in the past.

Được trang bị bởi lý lẽ khoa học này, họ cho rằng, chính phủ có thể bảo đảm hạnh phúc trong xã hội theo một cách mà họ không bao giờ có thể trong quá khứ.

 

It is an astonishingly crude and simple-minded way of thinking, and for that very reason increasingly popular.

Đó là một cách suy nghĩ khờ khạo và thô thiển đáng kinh ngạc, và vì điều đó, rất nhiều lý lẽ trở nên ngày càng phổ biến.

 

Those who think in this way are oblivious to the vast philosophical literature in which the meaning and value of happiness have been explored and questioned, and write as if nothing of any importance had been thought on the subject until it came to their attention.

Những người suy nghĩ theo hướng này không biết gì về văn triết học rộng lớn, trong đó ý nghĩa và giá trị của hạnh phúc đã được khám phá và đặt câu hỏi, và viết như thể không có bất kỳ tầm quan trọng nào về chủ đề được suy nghĩ cho đến khi nó được họ chú ý đến.

 

It was the philosopher Jeremy Bentham (1748-1832) who was more than anyone else responsible for the development of this way of thinking.

Đó là nhà triết học Jeremy Bentham (1748-1832), người đã chịu trách nhiệm hơn ai khác cho sự phát triển của cách suy nghĩ này.

 

For Bentham it was obvious that the human good consists of pleasure and the absence of pain.

Với Bentham rõ ràng là điều con người mong muốn bao gồm sự hài lòng và sự vắng mặt của nỗi đau.

 

The Greek philosopher Aristotle may have identified happiness with self-realisation in the 4th century BC, and thinkers throughout the ages may have struggled to reconcile the pursuit of happiness with other human values, but for Bentham all this was mere metaphysics or fiction.

Nhà triết học người Hy Lạp Aristotle đã xác định hạnh phúc bằng cách sử dụng kỹ năng và khả năng vào thế kỷ 4 trước công nguyên, và những nhà tư tưởng suốt thế kỷ này có thể đã đấu tranh để điều hòa sự theo đuổi hạnh phúc với các giá trị khác của loài người, nhưng với Bentham, tất cả những điều này chỉ là lý thuyết suông hoặc ảo tưởng.

 

Without knowing anything much of him or the school of moral theory he established - since they are by education and intellectual conviction illiterate in the history of ideas - our advocates of positive psychology follow in his tracks in rejecting as outmoded and irrelevant pretty much the entirety of ethical reflection on human happiness to date.

Không biết gì nhiều về ông hay trường phái lý thuyết đạo đức mà ông thành lập- vì chúng bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về giáo dục và trí tuệ - những người ủng hộ tâm lý tích cực của chúng ta theo đuổi con đường mòn của ông ấy trong việc loại bỏ rất nhiều thứ lỗi thời và không thích hợp khỏi toàn bộ của quy cách phản ánh hạnh phúc con người đến bây giờ.

 

But as William Davies notes in his recent book The Happiness Industry, the view that happiness is the only self-evident good is actually a way of limiting moral inquiry.

Nhưng theo như William Davies ghi chú lại trong cuốn sách gần đây của ông ấy “The Happiness Industry”, nhận định cho rằng hạnh phúc chỉ là điều mong muốn hiển nhiên kỳ thực là một hướng của câu hỏi về giới hạn tinh thần.

 

One of the virtues of this rich, lucid and arresting book is that it places the current cult of happiness in a well-defined historical framework.

Một trong những tác dụng của cuốn sách quý giá, dễ hiểu và lôi cuốn này là nó đặt sự sùng bái hạnh phúc hiện tại trong một khuôn khổ lịch sử được xác định rõ ràng.

 

Rightly, Davies begins his story with Bentham, noting that he was far more than a philosopher. Davies writes, ‘Bentham's activities were those which we might now associate with a public sector management consultant’.

Công bằng mà nói, Davies bắt đầu câu chuyện của ông ấy với Bentham, ghi lại rằng ông ta còn hơn cả một nhà triết học. Davies viết, “Những hoạt động của Bentham là những điều mà hiện nay chúng ta có thể gắn với một nhà chuyên môn quản lý lĩnh vực công.

 

In the 1790s, he wrote to the Home Office suggesting that the departments of government be linked together through a set of ‘conversation tubes’, and to the Bank of England with a design for a printing device that could produce unforgeable banknotes, He drew up plans for a “frigidarium” to keep provisions such as meet, fish, fruit and vegetable fresh.

Trong những năm 1790, ông ấy viết gửi tới Bộ Nội Vụ để đề xuất rằng khu hành chính của chính phủ được kết nối cùng nhau qua một bộ của “ hội thoại truyền hình” và gửi tới Ngân Hàng Anh với một bản thiết kế cho một thiết bị in có thể xuất ra những tờ giấy bạc ngân hàng khó quên.Ông ấy xây dựng kế hoạch cho một “phòng tắm lạnh” để giữ lương thực dự trữ như thịt, cá, hoa quả và rau tươi.

 

His celebrated design for a prison to be known as “Panopticon”, in which prisoners would be kept in solitary confinement why being visible at all times to the guards, was very nearly adopted.

Thiết kế nổi tiếng của ông ấy cho một nhà tù được biết tới là “ nhà tù xây tròn”, các tù nhân ở đó được giữ trong các phòng giam độc lập có thể được quan sát mọi lúc bởi những người canh gác, gần như đã được thông qua.

 

(Surprisingly, Davies does not discuss the fact that Bentham means his Panopticon not just as a model prison but also as an instrument of control that could be applied to schools and factories).

(Ngạc nhiên thay, Davies không thảo luận rằng thực tế Bentham có dự định nhà tù xây tròn không chỉ là một mẫu nhà tù mà còn như là một công cụ để kiểm soát có thể áp dụng cho các trường học và các nhà máy.

 

Bentham was also a pioneer of the “science of happiness”.

Bentham cũng là một người tiên phong của “khoa học của hạnh phúc”

 

If happiness is to be regarded as a science, it has to be measured, and Bentham suggested two ways in which this might be done.

Nếu hạnh phúc được nhìn nhận như một ngành khoa học, nó phải được tính toán, và Bentham đề nghị hai cách theo đó mà điều này có thể được thực hiện.

 

Viewing happiness as a complex of pleasurable sensations, he suggested that it might be quantified by measuring the human pulse rate.

Quan điểm hạnh phúc như là một phức hợp của sự hài lòng, ông ấy đề xuất rằng nó có thể được định lượng bằng cách tính toán tỉ lệ của những cảm xúc của con người.

 

Alternatively, money could be used as the standard of qualification: if two different goods have same price, it can be claimed that they produce the same quantity of pleasure in the consumer.

Hoặc là, tiền có thể sử dụng như là tiêu chuẩn của sự thẩm định phẩm chất: nếu hai sản phẩm khác nhau có cùng giá tiền, đó có thể được cho là tạo ra số lượng hài lòng như nhau trong người sử dụng.

 

Bentham was more attracted by the latter measure.

Bentham bị thu hút hơn bởi vấn đề phía sau.

 

By associating money so closely to inner experience, Davies writes, Bentham “sets the stage for the entangling of psychological research and capitalism that would shape the business practices of the twentieth century”

Bằng việc liên kết tiền rất chặt chẽ với những kinh nghiệm về tinh thần, Davies viết, Bentham “đặt ra một bệ đài cho việc làm rối rắm của các nghiên cứu tâm lý học và chủ nghĩa tư bản, thứ có thể đã định hình thói quen doanh nghiệp trong thế kỷ 20”.

 

The Happiness Industry describes how the project of a science of happiness has become integral to capitalism.

“The Happiness Industry” miêu tả dự án của ngành khoa học của hạnh phúc đã trở thành một phần cần thiết cho chủ nghĩa tư bản như thế nào.

 

We learn much that is interesting about how economic problems are being redefined and treated as psychological maladies.

Chúng ta học được điều thú vị về làm thế nào để những vấn đề kinh tế được định nghĩa lại và giải quyết như những căn bệnh tâm lý.

 

In addition. Davies shows how the belief that inner states of pleasure and displeasure can be objectively measured has informed management studies and advertising.

Thêm vào đó, Davies chỉ ra niềm tin về tình trạng tâm lý của sự hài lòng và sự khó chịu có thể được đo lường một cách khách quan cung cấp thông tin cho việc quảng cáo và các nghiên cứu quản lý như thế nào.

 

The tendency of thinkers such as J B Watson, the founder of behaviourism, was that human beings could be shaped, or manipulated, by policymakers and managers.

Xu hướng của các nhà tư tưởng như J B Watson, nhà tạo lập của chủ nghĩa hành vi, là loài người có thể được định hình hoặc bị thao túng bởi các nhà hoạch định chính sách và những người quản lý.

 

Watson had no factual basis for his view of human action.

Watson không có nền tảng dựa trên căn cứ có thực cho quan điểm của ông ấy về hành động của con người.

 

When he became president of the American Psychological Association in 1915,he ’had never even studied a single human being’: his research had been confined to experiments on white rats.

Khi ông ấy trở thành chủ tịch của Hiệp hội Tâm lý học Mỹ vào năm 1915, ‘ông ấy thậm chí chưa từng nghiên cứu một cá nhân người nào’: Nghiên cứu của ông ấy chỉ hạn chế ở những thí nghiệm trên chuột trắng.

 

Yet Watson’s reductive model is now widely applied, with ‘behaviour change’ becoming the goal of governments: in Britain, a ‘Behaviour Insights Team’ has been established by the government to study how people can be encouraged, at minimum cost to the public purse, to live in what are considered to be socially desirable ways.

Hình mẫu rút gọn của Yet Watson hiện nay đang được áp dụng rộng rãi, với việc “thay đổi hành vi” trở thành mục tiêu của các chính phủ: ở Anh, một “Nhóm Hành Vi Sáng Suốt” đã được thành lập bởi chính phủ để nghiên cứu cách con người được khuyến khích như thế nào, ở mức chi phí thấp nhất của tiền công, để sống dựa trên những gì đang được cho là những cách đáng mong ước mang tính chất xã hội.

 

Modern industrial societies appear to need the possibility of over-increasing happiness to motivate them in their labours.

Các xã hội công nghiệp hiện đại dường như cần khả năng tăng cường hạnh phúc để thúc đẩy họ trong công việc của họ.

 

But whatever its intellectual pedigree, the idea that governments should be responsible for promoting happiness is always a threat to human freedom.

Nhưng bất kể nguồn gốc trí tuệ của nó là gì, ý tưởng rằng chính phủ nên chịu trách nhiệm cho việc thúc đẩy hạnh phúc luôn luôn là 1 mối đe dọa cho tự do của loài người.

 

 

Từ vựng trong bài

a way of limiting moral inquiry: một hướng của câu hỏi về giới hạn tinh thần

integral: một phần cần thiết cho (being an essential part of something)

intellectual: trí tuệ ((adj)connected with or using a person’s ability to think in a logical way and understand things)

Panopticon: nhà tù xây tròn (a building, as a prison or library, so arranged that all parts of the interior are visible from a single point.)

psychological maladies: căn bệnh tâm lý

self-realisation: sử dụng kỹ năng và khả năng ((n)the fact of using your skills and abilities and achieving as much as you can possibly achieve)

well-defined: xác định rõ ràng ((n)clearly delineated, described, or determined)

entangling: làm rối rắm ((v)To involve in a complicated situation or in circumstances from which it is difficult to disengage)

tubes: truyền hình (the television)

mere metaphysics: chỉ là lý thuyết suông

Home Office: Bộ Nội Vụ

a public sector management consultant: một nhà chuyên môn quản lý lĩnh vực công

illiterate: sự thiếu hiểu biết ((adj)not knowing very much about a particular subject area.)

lucid: dễ hiểu ((adj)clearly expressed; easy to understand= clear)

 

VIE
View Question


abc